Đặc điểm kỹ thuật Ngư lôi Type 93

Ví dụ tiêu biểu nhất của loại ngư lôi này là tầm hoạt động và tốc độ có năng tinh chỉnh khác nhau.

  • 22.000 m với từ 48 đến 50 kn (89 đến 93 km/h)
  • 33.000 m với từ 37 đến 39 kn (69 đến 72 km/h)
  • 40.400 m với từ 33 đến 35 kn (61 đến 65 km/h)

Tuy nhiên hải quân Hoàng gia Nhật Bản huấn luyện cho thủy thủ rằng các ngư lôi Oxy có hiệu quả cao nhất khi tấn công ở cự ly 11 km (5,9 hải lý) với 42 kn (78 km/h).

Với khoảng cách bắt đầu tấn công xa hơn 10 km (5,4 hải lý) rất có hiệu quả nếu như các tàu chiến là mục tiêu đi thẳng với cùng vận tốc trong vòng vài phút khi ngư lôi đang tiến đến. Điều này đôi khi xảy ra khi các tàu khu trục Nhật làm việc theo nhóm với việc một chiếc sẽ dụ tàu tàu tuần dương đổi theo với tốc độ cao đánh lạc hướng sự quan sát trong khi chiếc tứ hai ngắm bắn trong đêm. Hoặc các tàu sân bay đang phóng máy bay lên để chiến đấu có thể trở thành mục tiêu dễ dàng của tàu ngầm trong các chiến dịch phía Nam Thái Bình Dương khoảng 1942-1943.

Ngư lôi loại 93 có trang bị đầu đạn nặng khoảng 2,7 tấn, với 490 kg thuốc nổ mạnh được nhồi vào.

Thiếu tướng hải quân Rai Jungo đã nhắc đến loại ngư lôi này trong chương "Ngư lôi" trong một cuốn sách có tựa đề được dịch là "Chi tiết đầy đủ về các loại vũ khí bí mật" được xuất bản lần đầu tiên bởi nhà xuất bản Koyo-sha tại Nhật Bản năm 1952.

Phần thân chính của ngư lôi là khoang chứa đầy khí oxy nén nguyên chất và hai khoang khí nén nhỏ (khoảng 13 lít), các van điều tiết để ngăn không cho khí nén thổi ngược ra nối với hai khoang nhỏ chứa khí nén thông thường. Đầu tiên khí nén thường sẽ trộn với nhiên liệu để đốt làm nóng bộ phận đẩy. Với việc này nhiên liệu sẽ cháy một cách đều đặn với hỗn hợp khí nén (nếu oxy nguyên chất được sử dụng trong công đoạn này thì với sức cháy của nó kết hợp với nhiên liệu thường gây nổ do chúng cháy quá mạnh không kiểm soát). Khi áp suất trong hai khoang khí nén từ từ mất đi thì van khóa khoang chứa khí oxy sẽ từ từ mở ra và oxy đi vào hai khoang chứa khí nén. Rất nhanh sau đó hai khoang chứa khí nén sẽ chứa đầy oxy nguyên chất và tiếp tục quá trình đốt cháy mạnh mẽ trong động cơ đẩy.

Các ngư lôi này cần được bảo dưỡng một cách kỹ lưỡng. Tàu sử dụng loại ngư lôi này đòi hỏi phải có hệ thống trích và nén khí oxy để có thể sử dụng loại ngư lôi loại 93.

Nó có thể được tháo rời ra thành nhiều phần khác nhau: đầu đạn, khoang chứa khí nén, bộ phận nổi phía trước, động cơ đẩy, bộ phận nổi phía sau, đuôi bánh lái và đinh ốc vít.

Phần đầu động cơ đẩy của ngư lôi Oxy là động cơ hai pit tông xi lanh sử dụng nhiên liệu dầu. Phần thứ hai là hai khoang khí nén có tên mật mã là 98% nguyên chất, từ "oxy nguyên chất" không được sử dụng vì lý do bảo mật. Nó có thể dễ dàng phát nổ nếu có bất kỳ giọt dầu nào lọt vào trong ống dẫn khí gây nghẹt. Vì thế lạm sạch các ống dẫn khí là công đoạn quan trọng nhất trong việc bảo trì ngư lôi oxy. Nó mất đến 4 hoặc 5 ngày để hoàn thành. Việc sử dụng động cơ đẩy bằng oxy nguyên chất thuộc hàng tối mật của Hải quân Hoàng gia Nhật Bản.

Khoang thứ nhất là khoang chứa khí nén bình thường có áp lực đến 230 atm với thể tích 13,5 lít dùng để kích hoạt động cơ đẩy.

Khoang thứ hai chứa oxy nén nguyên chất có áp lực 225 atm với thể tích 980 lít phần khoang chính được làm nguyên một khối bằng chất liệu hợp kim thép niken chromium-molybdenum, hợp kim này còn được dùng làm lớp giáp cho các chiến hạm.

Nhiên liệu đẩy oxy hỗn hợp được kích hoạt trong buồng đốt sẽ đẩy các pit tong và một trục điều khiển. Có một bánh răng hình nón ở trục. Trục chính có các vòng bi bên trong và bên ngoài dược gắn với đuôi có một vòng cùng bốn bánh lái có thể xoay ngược lại khi có góc lệch như thế sẽ không làm lệch hướng ngư lôi và hướng nó đi thẳng theo đúng đường vạch ra.

Lớp vỏ ngoài của ngư lôi làm bằng thép dày 3,2 mm, nhưng ở chính giữa chỉ dày có 1,8 mm và được xẻ rãnh để dẫn nước vào làm mát hệ thống đẩy.

Cũng có thêm hai khoang chứa không khí với tổng dung tích là 40,5 lít có áp suất lên đến 230 atm phía đầu và đuôi dùng để ổn định độ nổi của ngư lôi cũng như ổn định phần đuôi không cho nó quay một cách không kiểm soát.

Cùng với một thước đo độ sâu để kiểm soát độ sâu của ngư lôi. Dựa vào áp lực nước ảnh hưởng lên vỏ của ngư lôi chúng được điểu chỉnh để hoạt động ở độ sâu năm mét với hai khoang diều áp khí sẽ giữ cho chúng ổn định ở độ sâu đó.

Phần mép của thước đo có một la bàn hồi chuyển để điều chỉnh đuôi của ngư lôi xoay theo đúng hướng. La bàn hồi chuyển có tác dụng hướng ngư lôi thẳng đến mục tiêu theo hướng đã được định sẵn nó cho phép thậm chí ngư lôi phóng từ phía sau cũng sẽ vòng ra trước để đánh vào mục tiêu với điều kiện tàu phóng nó không ở trên đường nó quay đầu lại. Toàn bộ sự di chuyển của đuôi và sự ổn định của ngư lôi đều được dựa vào bộ điều áp khí.

Việc định hướng được thực hiện trước khi phóng ngư lôi. La bàn hồi chuyển của ngư lôi Sanso có đường kính 15 cm và dày 7 hoặc 8 cm tốc độ quay 8.000 vòng/phút. Ngư lôi Sanso có vấn đề với tốc độ của la bàn hồi chuyển trong sử dụng thực tế khi mà nó cần được hỗ trợ lúc phóng khi tàu đang chạy với tốc độ tối đa khoảng 35 knot.

Hải quân Hoàng gia Nhật Bản đã thử nghiệm loại ngư lôi này ở Dainyu, Aga-Minami của thành phố Kure, vùng Hiroshima tại Nhật Bản nhưng loại ngư lôi này cần một địa điểm thử nghiệm rộng hơn nhiều. Sau đó địa điểm thử nghiệm ngư lôi được đời đến đảo Otsu Shima, thành phố Tokuyama, kế bên vùng Hiroshima. Sau đó địa điểm này trở nên nổi tiếng được biết đến như nhà của những người lái ngư lôi cảm tử Kaiten.

So sánh Kaiten và ngư lôi Type 93

Bài chi tiết: Kaiten
Ngư lôi loại 93 được chỉnh sửa thành Kaiten

Tốc độ quay của la bàn hồi chuyển đã được tăng lên 20.000 vòng/phút và được trang bị cho Kaiten. Đầu đạn của ngư lôi loại 93 có sức nổ 490 kg tương đương khẩu pháo bắn 406 mm nặng một tấn của tàu chiến thuộc hải quân Nhật được được tăng lên 1,6 tấn cho Kaiten. Chỉ cần một ngư lôi loại 93 cũng đủ để đánh chìm hay làm hư hại nặng tàu chiến của quân Đồng Minh, dù vậy Hải quân Hoa Kỳ tuyên bố vào năm 1945 là không có bằng chứng nào cho thấy những chiếc tàu chiến bị chìm một cách đáng ngờ của họ là do bị đâm trực diện bởi Kaiten.

Ngư lôi loại 93 có chiều dài 9,61 m còn Kaiten có chiều dài 15 m.

Ngư lôi loại 93 có trọng lượng 3 tấn còn Kaiten có trọng lượng 8 tấn.

Ngư lôi loại 93 có tầm hoạt động 22.000 m với 52 knot trong khi đó Kaiten có tầm hoạt động 23.000m với 30 knot hay 70.000 m với 12 knot.

Kaiten có khả năng di chuyển chậm dưới mặt nước.